Trợ lực cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam "chuyển mình"

Loạt chính sách đồng bộ trợ lực cho công nghiệp hỗ trợ đã tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam chuyển từ vai trò “xưởng lắp ráp” sang trung tâm sản xuất, thu hút các doanh nghiệp FDI.

Theo Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương, Việt Nam hiện có hơn 6.000 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ (CNHT) tại Việt Nam nhưng mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước. Nếu chỉ tính riêng các DN Việt Nam, tỷ lệ nội địa hóa chỉ ở mức khiêm tốn khoảng 15,7%.

Trợ lực cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam "chuyển mình"- Ảnh 1.

Ảnh minh họa. Nguồn: Bộ Công Thương

Cụ thể, tính đến tháng 6/2025, chỉ khoảng 10% doanh nghiệp ứng dụng tự động hóa, dưới 20% đạt chứng nhận ISO và đa số mới chỉ tham gia ở công đoạn gia công cấp thấp. Tỷ lệ nội địa hóa tại nhiều ngành công nghiệp chủ lực như cơ khí, điện tử, ô tô vẫn còn khiêm tốn.

Tỷ lệ nội địa hóa trong ngành sản xuất ô tô tại Việt Nam chỉ ở mức 20 - 25%, thấp hơn so với mục tiêu đề ra. Mặc dù vậy, nhiều doanh nghiệp đã từng bước làm chủ công nghệ sản xuất linh kiện, chi tiết kỹ thuật cao.

Trong khi đó, ngành điện tử, đặc biệt ở nhóm sản phẩm điện tử gia dụng ghi nhận mức nội địa hóa cao hơn, nhờ sự tham gia ngày càng sâu của các doanh nghiệp trong nước vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn FDI như: Samsung, LG, Panasonic, Toyota…

Thực tế trên cho thấy, Việt Nam đang còn rất nhiều dư địa để phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về nâng cao năng sản xuất, tiêu chuẩn sản phẩm, kỹ năng quản trị và liên kết hợp tác theo chuỗi giá trị của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI.

Tại hội thảo “Xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ”, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương, cũng cho rằng, hiện nay, Việt Nam có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chiếm khoảng 40% tổng số doanh nghiệp toàn ngành. Điều này phản ánh rõ mức độ quan tâm và vai trò của Việt Nam ngày càng gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Hơn nữa, thu hút FDI có chọn lọc và gắn kết với doanh nghiệp nội địa là yếu tố sống còn nếu Việt Nam muốn chuyển từ vai trò “xưởng lắp ráp” sang trung tâm sản xuất.

Bên cạnh đó, thời gian qua, Chính phủ Việt Nam luôn xác định CNHT là nền tảng quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp chủ lực. Đây cũng là một trong những chìa khóa để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đồng thời giúp DN trong nước hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Nhiều chính sách ưu đãi và cơ chế hỗ trợ đã, đang được triển khai quyết liệt nhằm khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này, từ đó xây dựng hệ sinh thái sản xuất vững mạnh và bền vững. Ba nhóm chính sách lớn đang được chú trọng gồm: Ưu đãi đầu tư, hỗ trợ phát triển DN và cải cách hạ tầng, thủ tục hành chính.

Theo đó, các dự án CNHT thuộc danh mục ưu tiên sẽ được hưởng nhiều ưu đãi: Thuế thu nhập DN ưu đãi 10% trong vòng 15 năm; miễn thuế 4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo; đồng thời được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa phục vụ tạo tài sản cố định và hưởng thêm ưu đãi về đất đai, tín dụng.

Ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) đánh giá, đây là những chính sách hỗ trợ rất mạnh và hiếm thấy trong lĩnh vực đầu tư.

Bên cạnh đó, việc áp dụng cơ chế “một cửa” điện tử, phân cấp thẩm quyền cho địa phương và cắt giảm điều kiện kinh doanh đã góp phần rút ngắn thời gian làm thủ tục, tăng khả năng tiếp cận chính sách của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

"Công nghiệp hóa không thể thiếu công nghiệp hỗ trợ", các chuyên gia, nhà quản lý và doanh nghiệp tại Hội thảo đều chung quan điểm này. Không chỉ là một lĩnh vực sản xuất đơn thuần, đây còn là nền tảng lan tỏa công nghệ, tạo việc làm có kỹ năng và thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu rộng.

Minh An (t/h)

Link nội dung: https://www.doanhnghiepvaphapluat.vn/tro-luc-cho-cong-nghiep-ho-tro-viet-nam-chuyen-minh-a15798.html