Số lượng thẻ tài chính lưu hành bao gồm thẻ tín dụng (credit card), thẻ ghi nợ (debit card) và thẻ trả trước (prepaid card). Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) giai đoạn 2019-2024 đạt 5,8%.
Tổng số lượng thẻ vẫn duy trì xu hướng tăng trưởng, trong đó thẻ ghi nợ tiếp tục là nền tảng chính của thị trường, với gần 89%, tương đương khoảng 122,7 triệu thẻ, nhưng tốc độ tăng trưởng đã chậm lại CARG duy trì ở mức 6,1% trong giai đoạn 2019-2024.
Trong khi đó, thẻ tín dụng có sự tăng trưởng bứt phá với CAGR 19,1%, giúp nâng thị phần lên hơn 8%, tương đương hơn 11 triệu thẻ. Động lực tăng trưởng đến từ sự gia tăng tiêu dùng và nhu cầu chi tiêu linh hoạt. Cùng với đó, các ngân hàng đẩy mạnh dịch vụ mua trước trả sau (BNPL) trong bối cảnh bán lẻ và thương mại điện tử phát triển mạnh, kết hợp với các chương trình ưu đãi hoàn tiền.
Ngược lại, thẻ trả trước hầu như biến mất khỏi thị trường với mức sụt giảm bình quân 21,2% mỗi năm. Nguyên nhân là các nhu cầu nạp tiền và thanh toán nhỏ lẻ đã được thay thế bởi ví điện tử và ứng dụng ngân hàng.
Ảnh minh họa: Internet
Theo ông Phạm Trung Thành, Trưởng nhóm phân tích báo cáo thuộc phòng Nghiên cứu và Tư vấn thị trường của FiinGroup, tổng số lượng thẻ vẫn duy trì xu hướng tăng trưởng, trong đó thẻ ghi nợ tiếp tục là nền tảng chính của thị trường. Tuy nhiên, động lực tăng trưởng mới đến từ thẻ tín dụng, vốn hưởng lợi trực tiếp từ sự gia tăng tiêu dùng và nhu cầu chi tiêu linh hoạt. Song song đó, dịch vụ mua trước trả sau (BNPL) cũng nổi lên như một sản phẩm bổ sung, góp phần mở rộng kênh tín dụng tiêu dùng, đặc biệt trong bối cảnh bán lẻ và thương mại điện tử phát triển mạnh.
Báo cáo của FiinGroup cũng cho biết thêm thị trường thẻ tại Việt Nam đang chứng kiến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các mạng lưới quốc tế và nội địa.
Trong đó, Visa (Mỹ) hiện chiếm ưu thế với hơn 65% thị phần, MasterCard (Mỹ) nắm giữ gần 25% thị phần, JCB (Nhật Bản) với 6,8% thị phần, UnionPay (Trung Quốc) giữ 2,3% thị phần, American Express (Mỹ) chỉ chiếm chưa đến 1% thị phần.
Nhóm thẻ nội địa và các mạng lưới nhỏ gần như không đáng kể, chủ yếu bị kìm hãm bởi quy mô và yêu cầu đầu tư công nghệ. Trong năm 2023, trung bình cứ 10 giao dịch thẻ tín dụng đã có khoảng 8 giao dịch thực hiện bằng thẻ Visa và MasterCard. Mạng lưới nội địa NAPAS giữ tỷ trọng rất nhỏ ở lĩnh vực trên.
Báo cáo gần đây nhất của Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy điều này. Cụ thể, đến cuối quý I/2025, người Việt đang sở hữu khoảng 156,7 triệu thẻ ngân hàng còn hiệu lực, tăng thêm 1 triệu thẻ so với cuối năm 2024. Số lượng thẻ lưu hành hiện nay cao gần gấp rưỡi so với 4 năm trước. Trong đó, thẻ thanh toán quốc tế tiếp tục tăng trưởng mạnh. Ngược lại, việc phát hành thẻ nội địa có dấu hiệu chững lại.
Tuy nhiên, Trưởng nhóm phân tích báo cáo thuộc Phòng Nghiên cứu và Tư vấn thị trường của FiinGroup, cho rằng với lợi thế dân số trẻ, thu nhập không ngừng cải thiện và sự bùng nổ của thương mại điện tử, thị trường Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa tăng trưởng.
Huyền My (t/h)
Link nội dung: https://www.doanhnghiepvaphapluat.vn/viet-nam-co-gan-138-trieu-the-tai-chinh-dang-luu-hanh-a15921.html